Bài Du Uyên,
Ảnh Hữu Thành
Nếu ai đó đã quen với một
mùa thu ước lệ, đẫm chất văn chương, âm nhạc, mà lỡ lạc giữa Sài Gòn những ngày
này sẽ thấy rất lạc quẻ. Mùa thu Sài Gòn không lãng đãng mùi hoa sữa đong đưa
dưới những đợt gió heo may. Mùa thu Sài Gòn không có những hàng cây suy dinh
dưỡng tập thể, đưa thân thể xương xẩu giữa trời vì lá rụng. Mùa thu Sài Gòn bắt
đầu khi những tấm bạt được căng lên trên những vỉa hè, những tủ kính với đủ
loại bánh trung thu từ rẻ đến đắt, đủ loại từ mặn đến chay, dần dần xuất hiện.
Chất liệu và màu sắc vẫn thế, những cái bánh trung thu nướng nhân thập cẩm,
nhân đậu xanh vàng ươm, thơm phức, bánh dẻo trắng tinh ngọt lịm hương hoa bưởi
nồng nồng cùng với nhân hạt dưa, mứt bí tròng đỏ trứng muối... nhưng so với
những cái bánh được ăn lúc nhỏ, hương vị không thể nào so sánh nổi.
Với người nghèo, mùa thu Sài Gòn bắt đầu với những hóa đơn học
phí đầu năm, ôi thôi đủ các loại phí, xen vào nhau là những gương mặt phờ phạc
của người lớn và những đôi mắt non nớt, háo hức được gắn nụ cười sáng láng từ
từ chuyển sang phụng phịu dưới nắng ngày khai giảng, khi sắp lớp ngồi nghe các
thầy cô đọc diễn văn vào năm học mới. Và đôi khi, ngoài cổng trường lấp ló
những đôi mắt tiếc nuối, buồn thiu vì năm nay ba mẹ không đủ tiền lo cho đi
học.
Trung thu Sài Gòn hiện ra khi các con phố bán lồng đèn sau một đêm thay áo, sáng ra đủ màu háo hức; những chiếc lồng đèn dưới hình dáng ngôi sao, cá chép, con thỏ, bươm bướm được làm thủ công từ nẹp tre dán giấy kiếng, vài nét chấm phá bằng sơn nước xanh, đỏ, vàng, chấp chới bay vào mơ, trong cổ tích mà hồi nhỏ tôi cứ tưởng đó là cả bầu trời nghệ thuật. Bây giờ, con nít lẫn người lớn đều chuộng lồng đèn điện tử được nhập từ Trung Quốc hơn, vì chúng đủ màu sắc, đủ các kiểu dáng phức tạp, nào là siêu nhân, xe hơi, cúp bế, hoa sen... có cả nhạc, giá tiền thường đắt. Trẻ con nghèo dù thèm muốn nhưng trên tay có cái lồng đèn giấy kiếng cũng đủ hạnh phúc tuổi thơ rồi, giá mà có thêm chiếc mặt nạ Tề thiên đại thánh, Tam tạng, hay gì đó nữa thì thật tuyệt.
Trung thu Sài Gòn hiện ra khi các con phố bán lồng đèn sau một đêm thay áo, sáng ra đủ màu háo hức; những chiếc lồng đèn dưới hình dáng ngôi sao, cá chép, con thỏ, bươm bướm được làm thủ công từ nẹp tre dán giấy kiếng, vài nét chấm phá bằng sơn nước xanh, đỏ, vàng, chấp chới bay vào mơ, trong cổ tích mà hồi nhỏ tôi cứ tưởng đó là cả bầu trời nghệ thuật. Bây giờ, con nít lẫn người lớn đều chuộng lồng đèn điện tử được nhập từ Trung Quốc hơn, vì chúng đủ màu sắc, đủ các kiểu dáng phức tạp, nào là siêu nhân, xe hơi, cúp bế, hoa sen... có cả nhạc, giá tiền thường đắt. Trẻ con nghèo dù thèm muốn nhưng trên tay có cái lồng đèn giấy kiếng cũng đủ hạnh phúc tuổi thơ rồi, giá mà có thêm chiếc mặt nạ Tề thiên đại thánh, Tam tạng, hay gì đó nữa thì thật tuyệt.
Mùa thu Sài Gòn năm nào cũng kết thúc đìu hiu với
những tấm bảng quảng cáo bánh: mua 1 tặng 8, mua 8 tặng… cả tiệm. Ði loanh
quanh thể nào cũng có khi bắt gặp nguyên hộp bánh trung thu cùng mấy cái lồng
đèn chỏng chơ cháy dở nằm kể chuyện đời trong thùng rác!
Mưa khiến những con đường Sài Gòn vào thu cũng khác, nhiều đoạn bỗng hóa thành sông. Chiều chiều, tôi hay ngồi bên cửa sổ, cắn ổi, nhìn xuống những dòng người chen lấn, những con xe vừa chạy vừa bơi, cố thoát ra khỏi những con đường tắc nghẹn. Không ai có thời gian nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây, để tự hỏi, mình đang ở Sài Gòn hay một tỉnh miền Trung nào đó? Thời điểm này, dầu tâm hồn có một bầu hoàng hôn, mạch máu rạo rực lãng mạn, chắc chả ai nghĩ nổi bất kỳ câu thơ đẹp nào về mùa thu mà ngâm lên cho mọi người thưởng thức.
Lâu rồi, không biết tự khi nào, mùa thu không cho tôi chút háo hức nào nữa. Lâu lâu, như cô nàng đang vội cho buổi đi chơi, chỉ kịp tô chút son cho môi thêm đỏ, chút phấn cho má thêm hồng, mùa thu bay qua tôi phơn phớt rồi biến mất. Bị cơm áo gạo tiền chi phối, tôi ngày thêm vô cảm với mọi thứ xung quanh. Nhiều khi dạo quanh kênh Nhiêu Lộc, tôi thấy mấy đứa nhỏ cầm lồng đèn... chọi nhau, hay người ta thả đèn trên dòng nước, thì miệng cười mà sống mũi cay cay. Tôi nhớ hồi nhỏ dễ sợ!
Mưa khiến những con đường Sài Gòn vào thu cũng khác, nhiều đoạn bỗng hóa thành sông. Chiều chiều, tôi hay ngồi bên cửa sổ, cắn ổi, nhìn xuống những dòng người chen lấn, những con xe vừa chạy vừa bơi, cố thoát ra khỏi những con đường tắc nghẹn. Không ai có thời gian nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây, để tự hỏi, mình đang ở Sài Gòn hay một tỉnh miền Trung nào đó? Thời điểm này, dầu tâm hồn có một bầu hoàng hôn, mạch máu rạo rực lãng mạn, chắc chả ai nghĩ nổi bất kỳ câu thơ đẹp nào về mùa thu mà ngâm lên cho mọi người thưởng thức.
Lâu rồi, không biết tự khi nào, mùa thu không cho tôi chút háo hức nào nữa. Lâu lâu, như cô nàng đang vội cho buổi đi chơi, chỉ kịp tô chút son cho môi thêm đỏ, chút phấn cho má thêm hồng, mùa thu bay qua tôi phơn phớt rồi biến mất. Bị cơm áo gạo tiền chi phối, tôi ngày thêm vô cảm với mọi thứ xung quanh. Nhiều khi dạo quanh kênh Nhiêu Lộc, tôi thấy mấy đứa nhỏ cầm lồng đèn... chọi nhau, hay người ta thả đèn trên dòng nước, thì miệng cười mà sống mũi cay cay. Tôi nhớ hồi nhỏ dễ sợ!
Xửa xưa, các mùa trong suy
nghĩ của bọn nít ranh Sài Gòn chỉ có mùa hè và mùa thu, còn các mùa khác thì
mặc kệ. Nhớ mùa hè nhiều nhất, vì nghe tiếng ve kêu là được nghỉ hè, chơi 3
tháng đã đời. Còn mùa thu thì chỉ mấy ngày Tết Trung thu mới được gọi là mùa
thu. Gần tới ngày đó thì tụi tôi chia phe làm việc. Tụi con trai kiếm lon làm
lồng đèn, chúng đục những cái lỗ sau đít lon, rồi mang qua nhờ bác Quang sửa đồ
gia dụng dùng cái kéo bự cắt những đường thẳng bằng nhau từ đầu đến đít lon rồi
bóp cho lon lùn lại, dùng dây kẽm gắn hai lon vào cây trúc, sao cho khi đẩy đi
thì nó vừa chạy vừa xoay đều và phát ra tiếng leng keng leng keng. Tụi con gái
thì làm mặt nạ từ giấy bìa vở; trong nhóm có nhỏ Thy vẽ cực đẹp, vẽ xong tô màu
rồi cắt 2 con mắt 2 bên, nối sợi dây thun vô hai bên tai mặt nạ để đeo. Xong,
cả nhóm chúm chụm lại trầm trồ thành quả, và cầu mong đêm Trung thu trời đừng
mưa. Mới chiều, đã ôm đèn đi vòng xóm, la hét reo hò rủ rê, vậy mà vừa tụ họp,
y như rằng, trời đổ mưa. Mạnh đứa nào đứa nấy chạy tán loạn, cuối cùng gom lại
trong cái kho nhà thằng Tèo, vừa tối vừa bụi vừa chật. Bật quẹt đốt nến trong
mấy cái đèn lên, đeo mặt nạ vào, rồi thay phiên kể chuyện ma; nào là ma lon, ma
cây, ma tóc dài, ma vú dài, đủ loại ma trên trời dưới đất được lôi vô cái nhà
kho. Ðang hào hứng, bỗng một đứa nào đó chồm lên hù con bé Xíu, nó là đứa nhát
gan nhất, nó thét lên, cả đám bỏ chạy, đạp lên cả đống lồng đèn, may mà trong
kho chẳng có gì bắt lửa, không thì mông thằng Tèo sưng to rồi...
Rồi cả bọn lớn lên, bay đi, trôi dạt đây đó, mất liên lạc dần,
nhưng cứ đến Trung thu thì ký ức lại hiện về với tôi, níu giữ nỗi nhớ miên man.
Mọi thứ mang tên kỷ niệm đều lấp lánh trăm lần khi nhắc đến. Một lúc nào đó của
ngày mai, sẽ có một người ngồi đây, nhớ về ngày này và tự kể lại: Vào một đêm
Trung thu không mưa...
Trung
Thu năm nào tôi cũng đóng vai khán giả, nhìn mọi người quây quần bên gia đình.
Không người thân, mỗi khi bắt gặp câu slogan của một nhãn hiệu bánh: “Trung Thu
là Tết đoàn viên”, tôi thấy buồn cười cho mình, và quạnh quẽ. Lâu lâu, cũng
dành chút ít thời gian lang thang xem người ta vui Trung thu như thế nào. Chạy
xe thật chậm hòa vào dòng người, thấy mình bơ vơ đến tội, để mặc nước mắt chảy.
Ừ, thôi nín đi cô nàng, đừng mè nheo nữa, hãy Trung thu cho có với người ta.
Ừ, thôi nín đi cô nàng, đừng mè nheo nữa, hãy Trung thu cho có với người ta.
“Tùng dinh dinh cắc cái tùng dính dính
Tùng dinh dinh cắc cái tùng dính dính...”