Nhạc sĩ Phạm Duy
tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn (ông sinh ngày 5
tháng 10, 1921- mất ngày 27 tháng 1 năm 2013)
Cha của Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn
Anh cả của Phạm Duy là Phạm Duy Khiêm, một học giả và là một
nhà văn viết tiếng Pháp
Người anh thứ hai của Phạm Duy là Phạm Duy Nhượng, một nhà
giáo, cũng là một nghệ sĩ tài tử, tác giả bài Tà áo Văn Quân
Vợ của Phạm Duy là ca sĩ Thái Hằng
Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc[cần dẫn
nguồn]
Sau này ông có cha nuôi là học giả Trần Trọng Kim[cần dẫn
nguồn]
Các con của Phạm Duy cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ:
Ca sĩ Thái Hiền
Ca sĩ Duy Quang
Ca sĩ Thái Thảo
Nhạc sĩ hòa âm Duy Cường
Ngoài ra có thể kể đến:
Ca sĩ Thái Thanh, em gái của bà Thái Hằng
Ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, tức cháu gái của Thái Hằng
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, em trai của Thái Hằng, là ca sĩ
Hoài Bắc của ban hợp ca Thăng Long.
Nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, anh trai của Thái Hằng
Phạm Đình Viêm, anh trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Trung
của ban hợp ca Thăng Long.
Ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo
Ca sĩ Mai Hương, con gái của Phạm Đình Sỹ, tức cháu gái của
Thái Hằng
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác (chẳng hạn một số ca khúc của văn cao do ông đặt lời, như bài Bến Xuân). Những nhạc phẩm đầu tay của ông có nhiều hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó còn có nhạc tình lãng mạn, trong đó có nhiều bài giúp ông trở nên nổi tiếng: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya...
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc âm hưởng dân ca với
mong muốn xâm nhập sâu vào chốn thôn quê hơn, từ đó cho ra đời nhiều bài mà ông
gọi là "Dân ca mới", rất được đông đảo quần chúng yêu thích: Nhớ người
thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người
lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác
dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc
thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như
trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được
biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn
- Từ
năm 1948, bên cạnh những bài có sắc thái tươi vui như: Gánh lúa, Đường ra biên ải...
Ông có sáng tác thêm một thể loại mới: nói về sự đau khổ của những người sống
trong chiến tranh. Những bài như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành
Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru... đều có hình ảnh
làng quê và người dân quê nghèo khổ.
Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến
rất rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích
của cấp trên thời kháng chiến, ông bèn về miền Nam để tự do sáng tác. Năm 1952,
bài Tình hoài hương ra đời, khởi xướng cho xu hướng sáng tác "Tình ca quê
hương", sau đó là Tình ca; hai bài này được yêu thích từ Nam ra Bắc và nằm
trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương, với những câu như:
"Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu
trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn"
(trong Tình hoài hương), "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người
ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (trong Tình
ca).
Tiếp đó ông trở về thể loại dân ca mới với những bài Đố ai,
Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ,
Viễn du nói về sự chia lìa quê hương. Bài Hẹn hò nói về sự ngăn chia đôi lứa,
ông dùng nhạc ngũ cung giọng Huế. Ngoài ra còn có: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân
thì... Năm 1954, ông chuyển từ nhạc tình ca quê hương sang tự tình dân tộc, soạn
ra Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, trong đó có Em bé quê với những câu đầu
lấy trong sách giáo khoa Quốc Văn, được trẻ con thuộc như bài đồng dao.
-
Sau khi sang Pháp du học âm nhạc, ông sáng tác
thêm được nhiều bài giá trị, ban đầu vẫn là "Dân ca mới", lại có thêm
nhiều tác phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa mà phổ biến nhất phải kể đến "Đừng
xa nhau", "Ngày đó chúng mình", "Tìm nhau"...
Lúc này ông sáng tác tự do theo nhiều chủ đề, những bài hát
như nói về tâm tưởng '"Chiều về trên sông", "Một bàn tay",
"Tạ ơn đời", "Đường chiều lá rụng", "Nước mắt
rơi"... được Thái Thanh, Kim Tước, Quỳnh Giao thể hiện thành công; nhất là
ca sĩ Thái Thanh, em của Thái Hằng, tên tuổi của bà đã gắn liền với những tác
phẩm "Dân ca mới" và nhạc tình của Phạm Duy.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca
sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật.
Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết.
Tại Hoa kỳ, thời gian đầu ông sáng tác một số ca khúc nói
lên nỗi buồn tha hương, cũng như đả phá chế độ tại Việt Nam, những bản nhạc đó
được phổ biến trong băng nhạc Phượng Nga. Nhưng sau này ông sáng tác những bài
tình ca trở lại. Đáng kể nhất trong thời gian ở hải ngoại là bộ Minh họa Kiều
(phổ nhạc truyện Kiều), Trường ca Hàn Mặc Tử, Hương Ca (lúc đầu chỉ có 7 bài),
...
Sau nhiều lần về thăm quê hương. Phạm Duy chính thức trở về
định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt
Nam. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt.
Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa
xứ", "niềm vui thống nhất lòng người", còn Phạm Duy nói cuộc trở
về này là "lá rụng về cội". Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự
phản đối của người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền
toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla.
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở
về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành
tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn
ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới
thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về"
đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi
diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu. Ngày 18 tháng 8
năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương
Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm
lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
Các sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm nhiều loại:
Nhạc cách mạng: Sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, nói lên sự căm giận của người dân quê đối với giặc cướp nước, phá làng.
Tiêu biểu có thể kể: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh.
Nhạc quê hương: Một phần quan trọng trong sự nghiệp của ông,
gồm những bài ca ngợi quê hương đất nước, hình ảnh con trâu, đồng lúa, cái
cày... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca, Về miền Trung, Tình
hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê...
Nhạc tình đôi lứa: Tình yêu là một đề tài lớn trong cuộc đời
cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình có khối lượng nhiều
nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được giới trẻ trong nam
ngoài bắc hát như Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng
yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi
cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng...
Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai gái, tình yêu quê
hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản vẩn vơ cũng được
Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đến Đường chiều lá rụng, Bên cầu biên giới,
Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du... Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn
uất trước nội chiến, cảm khái trước thế thời như: Huyền sử ca một người mang
tên Quốc.
Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông có một địa vị chắc
chắn trong nền tân nhạc Việt Nam: Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam, Hàn Mạc Tử,
sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và hoàn thành lâu nhất của
ông.
Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm 1988: Người tình già trên đầu
non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều
rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc.
Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm Thiên Thư vào thập niên
1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng, Quán thế âm, Một
cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp
tay hoa, Tâm xuân.
Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập niên 1980: Thinh
không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người tình, Răn, Thiên đàng địa
ngục, Nhân quả.
Tâm ca: Gồm 10 bài, thở than về những xáo trộn trong cuộc sống
người dân miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích
Nhất Hạnh), Để lại cho em (thơ Nguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau,
Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru người hấp hối,
Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn nhiều bài khác
cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Tôi còn yêu tôi cứ
yêu.
Tâm phẫn ca: Sáng tác sau Tết Mậu Thân: Tôi không phải gỗ
đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương
(thơ Hoa Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài
sáng tác cho phong trào du ca.
Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca lời dung tục, chỉ có tác
giả hát, không ca sĩ nào hát.
Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy chim bỏ
xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly hương; Hoàng Cầm ca
phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt
Nam...
MỘT BÀI VIẾT HAY VỀ PHAM DUY
"Một nghìn bảy trăm cây số từ Hà Nội - Nguyễn Trương Quý
Lần trở lại Sài Gòn này, tôi có một lời đề nghị gần như là thách thức: viết về một nhân vật nổi tiếng. Thuận lợi thì có nhiều: ông được nhiều người hâm mộ; ông còn khỏe và nhất là minh mẫn, so với các nhân vật cùng thời thì ông quả là may mắn khi giữ được nhiều tư liệu về đời mình… Khó khăn có lẽ là ở tôi: tôi không phải người Sài Gòn, tôi không sống cùng thời hoàng kim của ông, tôi nghe nhạc của ông bằng những mỹ cảm của một thế hệ khác, không gian khác. Dù ông là người gốc Bắc, nhưng tôi vẫn không biết có thể coi ông là người gốc Hà Nội được không. Tính về số năm sống ở Hà Nội của ông còn ít hơn tôi nhiều.
Sài Gòn sau mười năm đầu thế kỷ 21 vẫn còn giữ được vài khu phố có kiến trúc thời thuộc địa, nhưng những kiến trúc phong cách “quốc tế” thời năm 60-70 thì đã xuống cấp. Căn bản là phong cách này bây giờ trên thế giới không còn được ưa chuộng và người ta thấy cũng xấu xí. Phong cách này gắn với thời hậu chiến ảnh hưởng của những kế hoạch tái kiến thiết và viện trợ, đề cao phô bày kết cấu bê-tông cốt thép, với những cột mảnh làm phân vị dọc mặt đứng và những tấm đan tô đá rửa làm ban-công. Khách sạn Caravelle mười một tầng ngày xưa giờ đã cải tạo thành phần dưới của tòa nhà hai mươi tầng với những chi tiết tân cổ điển. Những chung cư dọc đường Trần Hưng Đạo chỉ còn chờ phá đi xây lại. Những hàng cây sao gần trăm tuổi thì vẫn còn, vẫn thẳng tắp vươn lên bầu trời phương Nam xanh ngăn ngắt. Cây sao hàng gầy, nằm phơi ráng đỏ… Và nhạc của thời ấy vẫn còn được hát nhiều, may mắn hơn kiến trúc. Những bài hát lời lẽ chi tiết, vẽ nên cả không gian sống một thời: ngọn đèn hiu hiu, nỗi lòng cư xá… căn phòng nhỏ, cao ốc vô danh… Thời mà những tấm ảnh cũ in lại, có những cô gái mặc áo dài chiết eo đi với quần lụa đen, tóc uốn bồng lên, bình thản băng qua đường. Nhưng mà ai cũng có một thời, thời yêu anh em làm thơ, yêu em anh soạn nhạc.
Sài Gòn giờ càng ngày càng đông càng phát triển nóng đến nỗi báo “Tuổi Trẻ Cười” phải vẽ tranh biếm họa, gọi là Hòn ngập và Hòn nghẹt Viễn Đông. Buổi trưa tôi được rủ đi ăn cơm ở một quán dùng toàn đồ cũ, những bàn ghế và đèn đóm của thời những năm 60 – thì ra cái gì của phong cách quốc tế còn thì vẫn còn chứ không biến mất. Nhà thiết kế dùng những chi tiết gợi lại hình ảnh thời chiến: dây thép gai, tấm tôn dã chiến, lon sữa bằng nhôm đong gạo. Và giữa sảnh là một cái đài quay băng cối Akai. Nhạc thời cũ rền rĩ. Thấy đời mình là những đám đông, người chia tay nhau cuối đường.
Ở Sài Gòn cách đây vài năm có một cửa hàng chuyên bán băng nhạc cũ tên là Thanh Nhân ở 20 Nguyễn Huệ. Hiện giờ thì khu đó đã giải tỏa để xây khu cao ốc văn phòng cao cấp. Hiệu Thanh Nhân cậy thế có đủ nguồn nhạc cũ lúc công nghệ in đĩa chưa phổ biến, nên bán băng cát-xét đắt gấp đôi bình thường. Giờ tôi nghĩ hiệu này có còn tồn tại đi chăng nữa thì cũng không cạnh tranh được với đĩa lậu la liệt. Tôi đi bộ từ nhà sách Nguyễn Huệ ra đó mà chưng hửng. Dù sao thì cũng cảm giác như một quá khứ đã không còn.
Bạn tôi bảo, tưởng gì, muốn nghe thì sẵn. Hàng tối, ở các quán hát cho nhau, người ta vẫn miệt mài ca những kỷ niệm của họ. Năm nay, các phòng trà ca nhạc làm ăn thất bát. Người nhạc sĩ chuyên phối khí nhạc tiền chiến cũng chẳng có nhiều việc để làm. Các đĩa nhạc tiền chiến giờ cũng ra thưa thớt. Hãng phim Trẻ thì đã chấm dứt series videoNhững tình khúc một thời vang bóng từ bốn năm nay. Còn lại Phương Nam Phim vẫn kiên trì khai thác. Nhưng đời sống của dòng nhạc này muốn sống thì phải là sống dưới ánh đèn sân khấu, chứ không thể chỉ là cơm nguội khi đói lòng chốn phòng thu ra đĩa.
***
Ở Hà Nội vào gặp Phạm Duy, tôi chỉ chia sẻ được với ông một giọng nói Bắc, còn ngoài ra mọi thứ đều khác. Ngay cả giọng của ông cũng là để diễn đạt những ngôn từ có gốc từ một thời xa lắc, rồi trôi giạt mấy chục năm, một lối nói luôn rành mạch và khôn ngoan. Lối nói ấy rất chủ kiến và chắc, chứ không lộn xộn, hoang mang và “đang cấu trúc” in progress như thế hệ chúng tôi.
Ông mệt nên thay vì trả lời nhiều, ông bảo tôi đọc to lên những bài viết trong bản thảo cuốn sách ông mới viết về âm nhạc, thực ra là về những bài ông sáng tác trong cuộc đời mình. Đọc thành tiếng, tôi nhận thấy ông có tài diễn đạt ý tưởng một cách hấp dẫn và thông minh bằng một thứ văn viết tự nhiên như kể chuyện. Tôi nghĩ tới nhạc của ông, những bài hát để lại ấn tượng cho tôi về sự phong phú ngồn ngộn của ca từ, hát cũng là một cuộc trình bày ngôn ngữ. Những chữ sắc nhọn, gai góc, xù xì, cảm tưởng tự nhiên chủ nghĩa, xô đẩy nhau. Giết người đi, giết người đi. Giết người như loài bướm đong đưa… Trong căn phòng mười lăm mét vuông kín như bưng, chỉ có cái cửa sổ che rèm, một cái giường cùng lỉnh kỉnh đồ đạc như mọi căn phòng của người già bị bệnh, ông ngồi thu người trong cái ghế xoay giữa đống máy tính, máy in và loa nhạc, nhỏ nhoi và kín đáo. Bầu không khí buổi chiều khá ngột ngạt như sắp có giông, chỉ có tiếng tôi đều đều đọc những dòng viết của ông.
***
Tôi vẫn nhớ cảm giác đầu tiên khi nghe những ca từ gợi về một không khí bảng lảng xa xưa, những miền giáo đường với người tình Văn khoa. Những ca từ đem lại một đặc tính duyên dáng và lịch lãm, biến những địa điểm và không gian cụ thể như khung trời đại học, công viên chiều qua, chiếc cầu biên giới… thành lấp lánh của màu sắc kỷ niệm. Nó khác và mới lạ với đầu óc tư duy nặng về trực quan và thực tế của tôi cũng như nhiều người miền Bắc. Nó giống như một người vẫn khai trong lý lịch “Tôn giáo: Không” bước vào một nhà thờ, nhìn những vòm trần cao vút và tiếng kinh cầu ngân nga, mà bâng khuâng lạ lẫm.
Người Sài Gòn yêu rộng rãi những thể loại nhạc tình cảm, và tình ca lãng mạn một thời trở thành món ăn tinh thần của bao thế hệ. Có những người Hà Nội, hay đúng hơn là dân Bắc, nhiều khi quen một lối sống thực tế và cách nói năng chao chát, cho đó là “sến”. Tuy nhiên có hỏi ra thì mới hay, sến đối với họ là những gì khóc lóc nỉ non, chàng và nàng ly biệt, hay là ỉ eo bolero. Ai cũng biết nói vậy là nghĩ hẹp, nhưng chẳng phải là mới mẻ gì việc người ta bảo “sến như dân Sài Gòn”. Vấn đề là ở Sài Gòn người ta kiếm sống dễ hơn, thu nhập cao hơn, kinh tế phồn vinh nhất nước. Phồn vinh thật chứ không phải “giả tạo”. Một chiều mưa Sài Gòn như mọi chiều mưa, dạt vào mua cái áo mưa, chợt loáng thoáng bên tai… ngày nào đọc lại dòng thơ, mưa rơi, mưa rơi trên má… Bất chợt, những lời lẽ mùi mẫn nọ làm cho con đường nhiều lô cốt đỡ khó đi. Đường kẹt xe chết đứ đừ, ba bề bốn phía mấy cửa hiệu thời trang vẫn mở nhạc ầm ầm. Phố xá thênh thang đón chân tôi đến nơi này…
Người lái xe ôm khéo léo vượt qua con đường dài như bất tận đến qua trường đua Phú Thọ. Tôi xa ông không chỉ một nghìn bảy trăm cây số đi máy bay, không chỉ mười cây số từ trung tâm Sài Gòn bằng xe ôm (đi taxi thì khả năng bỏ xe lại bắt xe ôm rất cao), tôi vẫn xa ông ngay trong căn phòng này, như thể giữa tôi và ông có một cái hố chứ không phải là một viên gạch lát sàn vuông 40cm giữa hai cái ghế. Biết nói cái gì nữa nhỉ. À, ông có nick là “ông già hi-tech”, ông thích chơi công nghệ, từ máy tính đến các dụng cụ kĩ thuật số. Nhiều người mê ông thì mê như thánh sống, nói về ông cả buổi không cạn, viết hàng tập về tác phẩm của ông. Người lại bảo tôi đừng viết về ông, chẳng hay gì cái người phức tạp, viết đằng nào cũng khó xử cho mình. Nhiều người không ưa ông vì những sự lựa chọn và toan tính, lại càng không thích vì những phát ngôn nhiều khi gây hấn. Tôi đã đọc hồi ký của ông được in trong nước, những lời rất thông minh và biết lách qua những chỗ khúc mắc của thời cuộc và quan hệ. Con người của ông gần như chẳng còn ngóc ngách nào giấu cả. Ông có nói nhiều hơn về bản thân thì cũng như một người chơi bài ngửa. Con người ông thế nào thì dường như đã chẳng ngại ngần giấu diếm trong nhạc, trong phát ngôn và trong hành trình song hành với đời sống của bao nhiêu thế hệ – những nhân chứng cho một ca tốn khá nhiều giấy mực cho các bên phân xử. Chất liệu thì có đủ cả đấy, rõ ràng rành mạch, vậy mà mọi sự vẫn cứ u minh như phủ một màn sương huyền hoặc.
Ông khoe đĩa nhạc Thu Hiền hát 7 bài của ông. Tôi hỏi, ông có biết cái giọng luyến láy phát âm có màu sắc dân ca Nghệ Tĩnh này từng được người miền Bắc yêu thích lắm không? Ông chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi lại: “Thế à?” Rồi tôi lại nói về sự khác nhau giữa ca từ trong việc đặt lời cho những bản nhạc như Serenade của Schubert hay Trở về Sorriento của Curtis, và ông có biết là ở miền Bắc thịnh hành những bản lời khác… Câu trả lời cũng vẫn là ngạc nhiên, “thế à?” Ông bảo việc ca sĩ hát nhạc của ông bây giờ là do Phương Nam quyết hết, ông không biết việc tổ chức hát ra sao… Sau một hồi nói chuyện, tôi lấy làm nghi hoặc, chẳng lẽ ông lại như một người tách biệt với đời sống âm nhạc đương đại đến thế. Tự nhiên tôi như thấy, căn phòng này, không khí này, buổi chiều này, như cách ly xa vời vợi với kẹt xe, với lô cốt đường phố, với hàng cây ngoài kia, những cảnh trí từng là nguồn cảm hứng cho âm nhạc của ông.
Ông lấy đĩa nhạc mới ra. Không khí mềm dịu đi trong tiếng nhạc của một bài hát mà ông đã viết cho Hà Nội, nơi ông lớn lên: Mơ dạo xuân Hà Nội, phổ thơ Thảo Chi.
Mùa Xuân phơn phớt gió
Ngày Xuân ta lang thang
Bóng chàng không thấy đâu
Bơ vơ trên xứ lạ
Buồn vì Xuân đã mất
Một mùa Xuân mưa bay
Ước gì tay trong tay
Dạo chiều Xuân Hà Nội
Tôi lấy máy ảnh ra chụp. Ông ngồi ngả ra ghế, không hẳn thư thái cũng không hẳn suy tư. Ông đang nghĩ gì? Một đời của ông có phải là tròn đầy không, hay cuộc đời đó là của một kẻ lang bạt nhưng biết vun vén thích nghi hoàn cảnh. Mà hình như đấy cũng mang máng cuộc đời của bao người cất bước chân đi, không ấm chỗ nào bao giờ, mượn những chữ bóng bảy “giang hồ” để cho thi vị. Tình ái trong nhạc của ông cũng nhiều những mối tình qua đường, những trả hết cho người, cả những chua cay, ngày chia tay, lặng lẽ mưa rơi, một tiếng thương ôi, gửi đến cho người… Dù là nhạc tình hay nhạc xã hội, là đấy là một loại nhạc không dành cho những tâm sự tươi non, ngây thơ hoặc trong trắng. Nó là loại nhạc của người đã dày dạn, dù có đóng vai trẻ con hay thoát tục vẫn đầy nhục cảm. Từ một chi tiết, câu hát đưa đẩy ra cả một không gian mênh mang: Ôi tóc em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời. Cái nhục cảm vì tính chất tạm trú, “biết ra sao ngày sau”, nên càng cuống quýt, nghiến ngấu. Điều này khiến cho ở cấu trúc hình tượng, ông sai khiến ca từ bắt được những cách biểu đạt ngoa dụ, phóng dật. Những vật liệu bình thường, những sự việc bình thường, được gán tính cách, được nhân cách hóa, được đẩy tới cao trào theo kiểu luôn chuyển động không ngưng nghỉ: Yêu như loài ma quái, đi theo ai tới cuối trời, đi không thôi kêu gào, làm sao nói được tình tôi… Bao nhiêu người yêu nhau đã gặp được tình tự ấy trong chính đời mình.
Chiều xuân mưa bay Hà Nội, ông cũng mơ mang theo như bao người tha hương. Nhưng cơn mưa ấy là cơn mưa của một quá khứ, Hà Nội ngày ông trở về cũng là một Hà Nội khác xưa đến “một nghìn lần” như ông thừa nhận. Với tôi, ông là một người đã làm công việc của mình, đi qua cuộc đời bề bộn, với những toan tính sắp đặt để khẳng định chỗ đứng, có khi thành có khi bại. Một khi đã lên yên, chỉ có thể phóng đi, chấp nhận thị phi cùng những hậu quả không mong muốn. Cái sự bất chấp liều mạng của ông thời nào, nay có đầy ở những người Việt mới.
Ra khỏi căn nhà, tôi bước ra con đường trời mây vần vũ. Bên kia đường, trường đua ngựa vẫn đông nghìn nghịt người xem. Mai tôi về lại Hà Nội, tôi vẫn chưa biết phải bắt đầu viết ra sao."
* Những chữ in nghiêng là lời ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và Y Vân.