Kênh Vĩnh tế mùa lũ |
Tôi
thích đọc sử nên khi về làm biên tập viên cho tờ Báo ảnh VN phía nam, công việc
đầu tiên cứ tôi là đọc nhiều sách sử phương nam để tìm kiếm đề tài. Một trong
những câu chuyện thu hút tôi là con “ Kênh Vĩnh Tế”. Tôi và những chiến hữu của
tờ báo đã xuôi ngược con kênh này chụp ảnh nhằm thể hiện sự quan trọng và cuộc
sống đa dạng của người dân 2 bờ kênh. Đọc lịch sử cũng như đi tham quan cả con
kênh Vĩnh Tế dài 100 km khởi đầu từ TP Châu Đốc chạy đến giáp ranh sông Giang Thành mới
thấy được tầm nhìn xa và rộng của vua Gia Long khi cho khởi công xây dựng con kênh
này vào năm Kỷ Mão 1819 vì nó vừa có lợi cho việc trấn thủ biên giới của quốc
gia vừa mở rộng giao thương phát triển kinh tế khu vực miền Tây Nam bộ. Chụp ảnh
cuộc sống người dân 2 bên bờ kênh Vĩnh Tế có 2 mùa rõ rệt. Mùa nắng cuộc sống người nông dân gắn với ruộng đồng
vùng biên giớ với những cánh đồng thẳng kéo dài đến khuất tầm nhìn. Ta sẽ không
phân biết đâu là đất Việt Nam và đâu là đất Campuachia vì hai bên đều trồng lúa,
trong khi người bản địa cũng na ná giống nhau với màu da đồng đen và nói cả tiếng
Việt và tiếng Campuachia. Hic. Vào mùa nước lũ thì ngập trắng đồng với mênh mông
là nước. Tất nhiên con kênh đã chìm sâu dưới nước và ta chỉ đi được khi chạy dọc
con đường đê được đắp cao dọc theo con kênh. Khó như vậy đó, nhưng tôi đã đi
và chụp ảnh hết con kênh này cả 2 mùa Mưa &Nắng.
Kênh Vĩnh Tế đoạn chảy qua tỉnh Kiên Giang |
Để
tuyên dương công trạng của vợ chồng Thoại Ngọc Hầu và thể theo lòng dân mến mộ,
vua Minh Mạng cho lấy tên chồng bà là Nguyễn Văn Thoại đặt cho con kênh “Thoại
Hà”, núi “Thoại Sơn”, đặt tên kênh Châu Đốc – Hà Tiên là “Vĩnh Tế Hà”, núi Sam
gần đấy là “Vĩnh Tế Sơn” và làng cạnh núi là “Vĩnh Tế Thôn”. Năm Minh Mạng thứ
17 (1836), vua cho chạm hình tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, đỉnh đồng lớn nhất
trong Cửu đỉnh đặt tại Thế miếu, Huế.
Thoại
Ngọc Hầu và bà Châu Thị Tế được người dân An Giang cảm mến, nhớ ơn. Ở huyện Thoại
Sơn, ngoài đền thờ, bia đá còn có khu du lịch mang tên Hồ Ông Thoại. Tại chân
núi Sam, có một làng mang tên Vĩnh Tế. Hai tiếng “Vĩnh Tế” biểu lộ sự nhớ ơn của
nhân dân đối với ông bà Bảo hộ Thoại Ngọc Hầu… Nơi này vẫn còn lưu truyền câu
ca dao:
Đi
ngang qua cảnh núi Sam
Thấy
lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi.
Ông
ngồi vì nước vì đời,
Hy
sinh tài sản không rời nước non
Nước
kênh Vĩnh Tế lờ đờ,
Thành phố Châu Đốc, nơi xuất phát con kênh Vĩnh Tế |
Vùng Đông Hồ - hạ lưu sống Giang Thành thuộc tp Hà Tiên, đoạn cuối của Kênh Vĩnh Tế |
Kênh
Vĩnh Tế là kênh đào lớn nhất, có vị trí quan trọng nhất ở vùng biên giới Tây
Nam nước ta trong thời phong kiến nhà Nguyễn. Kênh dài gần 100 km nối liền hai
địa danh nổi tiếng miền Tây là TP.Châu Đốc – tỉnh An Giang và thị xã Hà
Tiên – tỉnh Kiên Giang. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh
vực kinh tế và quốc phòng, gắn liền với tên tuổi của Thoại Ngọc Hầu.
Kênh
Vĩnh Tế bắt đầu đào vào tháng Chạp năm 1819, xuất phát từ bờ Tây sông Châu Đốc,
chạy song song với đường biên giới Việt Nam – Campuchia và kết thúc tại điểm
nối tiếp với sông Giang Thành (thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang). Kênh được
đào dưới sự chỉ huy của Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn
Văn Tồn. Sau có thêm Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt, cùng 2 Phó Tổng trấn
Trương Tấn Bửu , Trần Văn Năng và Thống chế Trần Công Lại cùng góp sức chỉ
huy đến năm 1824 thì hoàn thành.
Tên
gọi Vĩnh Tế được đặt theo tên vợ cả của Thoại Ngọc Hầu là bà Châu Thị Vĩnh Tế
(1766-1826) hay còn có tên khác là Châu Thị Tế. Bà là người cù lao Dài, nay thuộc
xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long và là trưởng nữ của ông Châu Huy
(có sách chép là Châu Vĩnh Huy) và bà Đỗ Thị Toán. Thời chúa Nguyễn, Nguyễn Văn
Thoại theo mẹ rời làng An Hải (nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng) di cư
vào Nam sinh sống ở cù lao Dài nên đã gặp bà Vĩnh Tế và cưới bà tại đây vào năm
1788.
Bà
Vĩnh Tế nổi tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang, đã góp phần không nhỏ
trong sự nghiệp lừng lẫy của chồng. Bà còn là người có công xây dựng miếu Bà
Chúa Xứ núi Sam – Châu Đốc. Khi Thoại Ngọc Hầu được vua giao trọng trách đào
con kênh nối liền từ Châu Đốc đến Hà Tiên, bà đã tận tụy giúp chồng chăm lo
công việc đại sự. Những lúc chồng bận việc công cán, bà đã thay chồng lãnh phần
đôn đốc, coi ngó việc đào kênh, tiếng nhân đức của bà được nhân dân truyền tụng.
Bấy giờ trong dân gian có câu:
Nước
Nam trai sắc gái tài,
Gương
bà Châu thị lưu đời ngàn năm.
Nhớ
ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an.
Đến
bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại,
biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt
và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn.
Nên
ca dao có câu:
Kênh
Vĩnh Tế, biển Hà Tiên,
Ghe
thuyền xuôi ngược bán buôn dập diều.
( Trích một số hình ảnh tôi chụp dọc theo bờ kênh Vĩnh Tế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét