Trong dịp trở lại Đà Lạt cuối
tháng 11, tôi đã vô tình đi giữa mùa hoa Dã Quỳ. Màu hoa vàng tràn ngập suốt những
con đường. Và, tôi lại miên man cho mùa hoa dã quỳ ở tận miền Tây bắc
đất nước mà tôi có dịp một lần đi qua. Suốt cung đường Tây Bắc từ Sa Pa – Lai
Châu – Điện Biên Phủ về Sơn La - Mộc Châu…tháng 12 năm 2014 là một cung đường bất tận màu vàng của dã quỳ.
Tôi ngỡ ngàng bởi là người của miền Nam tôi cứ tưởng dã quỳ là hoa của miệt
trong này. Của Tây Nguyên và Đà Lạt. Có lẻ dã quỳ ở Tây bắc có một đặc điểm riêng
hơn miền nam là ngoài những hàng hoa dọc hai bên quốc lộ,thì ngoài này có nhiều
núi đồi, suối, thôn bản…nên tôi có cảm giác màu hoa vàng tươi nổi bật trên tán lá phủ xanh
núi đồi.
“Dã quỳ” hay còn gọi là Cúc
quỳ, Sơn quỳ, Hướng dương dại là một loài cây dễ mọc, sinh trưởng nhanh, thường
ra hoa vào dịp cuối mùa thu, đầu mùa đông (khoảng cuối tháng 10 đến đầu tháng
12 hàng năm), mỗi hoa thường có 13 cánh, tỏa tròn to khoảng 8 – 10 cm, cánh hoa
màu vàng rực, hướng dương, nhụy căng tròn, tràn đầy sức sống, tỏ ý kiêu hãnh
không bao giờ chịu khuất phục, tượng trưng cho một tình yêu chung thủy bền lâu.
Mặc dù có ý nghĩa và có một
vẻ đẹp kiêu sa, lãng mạn như vậy, nhưng không hiểu vì sao mà người đời lại
không dùng hoa Dã quỳ để tặng nhau trong ứng xử giao tiếp và cũng không dùng
hoa Dã quỳ để trao tặng cho nhau trong tình yêu, mà người đời chỉ khao khát
được chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, khen tặng và tiếc nuối cho một vẻ đẹp đến mê hoặc
lòng người của một loài hoa dại
SỰ TÍCH HOA DÃ QUỲ
Theo anh Đỗ Hữu Thế, hoa Dã
quỳ gắn với một câu chuyện truyền thuyết cảm động về tình yêu đôi lứa. Chuyện
kể rằng từ xa xưa có một bộ tộc Lasiêng sinh sống ở vùng Tây nguyên xa xôi. Trong
bộ tộc có nàng H’Linh xinh đẹp yêu tha thiết chàng K’Lang, ngày ngày K’Lang vào
rừng săn bắn, hái lượm, còn H’Linh ở nhà se sợi dệt tấm chăn kiệu chồng (theo
tục lệ của bộ tộc thì con gái trước khi lấy chồng phải dệt một tấm chăn thật
đẹp để mang về nhà chồng), tối về họ lại quây quần đốt lửa và múa hát cùng dân
làng. Cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc của họ cứ thế trôi qua và chờ đến ngày trở
thành chồng vợ. Nhưng tình yêu giữa hai người lại không được suôn sẻ như mong
đợi, bởi trong bộ tộc có chàng LaRihn là con trai của người tộc trưởng cũng
ngày đêm thương trộm, nhớ thầm H’Linh, nhưng không được nàng đáp lại. LaRihn
rất hờn ghen.
Cho đến một ngày K’Lang vào
rừng như thường lệ, nhưng đến tối không thấy về. H’Linh chờ đợi một ngày, hai
ngày rồi ba ngày vẫn không thấy K’Lang trở về làng. Nghĩ có chuyện chẳng lành,
nàng vào rừng tìm K’Lang. H’Linh đi mãi qua mười mấy con suối, mười mấy cánh
rừng mà vẫn không tìm thấy người yêu, quá mệt, nàng ngủ thiếp đi. Trong giấc
ngủ say nàng mơ thấy K’lang gọi và bảo nàng hãy đi thêm một con suối nữa sẽ gặp
chàng ở đó. Nàng giật mình tỉnh dậy nhớ lại giấc mơ và đi tiếp, quả nhiên đi
đến cuối nguồn nàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng đau xót, K’Lang đang bị
những người của bộ tộc Lasiêng trói chặt và dùng những mũi tên, những ngọn giáo
đâm vào da thịt. Nàng chạy tới ôm lấy
chàng mặc cho nguy hiểm nàng vẫn quyết bảo vệ người yêu. Vì quá hờn ghen với
tình yêu của H’Linh dành cho K’Lang; LaRihn – con trai tộc trưởng Lasiêng đã
buông lơi mũi tên hận tình, hắn không ngờ rằng chính mũi tên nghiệt ngã ấy lại
bắn trúng nàng – người con gái mà hắn đã ngày đêm thầm thương trộm nhớ. H’Linh
chết cùng K’Lang trong tư thế quỳ và ôm lấy chàng không rời. Về sau, tại nơi
H’Linh chết đã mọc lên một loài hoa dại có màu vàng rực rỡ tràn đầy sức sống
mãnh liệt thể hiện cho một tình yêu chung thủy, người đời đã đặt cho một cái
tên là lạ và mỹ miều đó là hoa “Dã quỳ”. Người xưa cũng giải thích rằng “Dã” có
nghĩa là hoang dã; “Quỳ” có nghĩa là quỳ gục xuống.
Một câu chuyện buồn...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét